Bài viết Bát hương bản mệnh là gì, Mách anh chị
cách bốc cho phù hợp thuộc chủ đề về Phong Thủy Tử
VI thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không
nào !! Hôm nay, Hãy cùng Https://blognvc.com/ tìm hiểu Bát hương
bản mệnh là gì, Mách anh chị cách bốc cho phù hợp trong bài viết
hôm nay nhé ! Các bạn đang xem nội dung về : “Bát
hương bản mệnh là gì, Mách anh chị cách bốc cho phù
hợp”
Clip về Bát hương bản mệnh là gì, Mách anh chị cách bốc cho phù
hợp
2.2 Theo quan điểm của Đạo Giáo và Tiên đạo bát hương bản mệnh
thường được chia làm 2 loại sau:
2.2.1 a. Bát hương bản mệnh bắt buộc:
2.2.2 b. Bát hương bản mệnh tự nguyện
2.3 Theo quan Điểm của Phật GIáo. Có nên Lập Bát hương Bản Mệnh
hay không?
2.3.1 Quan điểm từ cá nhân chúng tôi.
3 3. Các bốc bát hương bản mệnh
1. Bát hương bản mệnh là gì
?
Tôn nhan bản mệnh và bát hương bản mệnh coi là
một. Nếu theo tâm linh bát hương bản mệnh là khí cụ được mọi người
thành tâm thân gửi bản mệnh của thân thể mình cho đấng tối cao. Mọi
người lập bát hương bản mệnh đều mong muốn nhận được ban phước, che
chở độ trì gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tránh gặp tai ương
qua khỏi nạn kiếp trong cuộc sống.
– Những anh chị nào là con của Phật, Tiên, Thánh,
Vương mang trong mình mệnh đồng. Bắt buộc phải mở phủ hay nói các
khác là lập bát hương bản mệnh hay tôn nhang bản mệnh.
– Những người có căn quả, từ kiếp trước được bề
trên cứu rỗi, do đó từ tiền kiếp anh chị đã lập bát hương bản mệnh
nên kiếp này cần phải tiếp tục tôn nhang bản mệnh của mình. Kiếp
này vẫn phải nương nhờ nơi các ngài và nhớ ơn đức của các ngài đã
cứu rỗi cuộc đời anh chị.
Trường hợp này là những anh
chị không mang căn quả cũng chẳng
phải mệnh đồng. Đơn giản họ chỉ là các người
mong muốn được sự che chở của đáng tối cao. Hộ có thiện tâm,
tín tâm, nguyện phụng thờ Tiên Thánh. các ngừoi này,
sẽ có được phần nhiều thành tựu trong cuộc
sống, nếu như họ tuân thủ đúng theo những tiêu
chí của một hương tử hay phật tử …của đạo phái mà
mình tin theo.
Trường hợp thứ hai: Đây là trường hợp
đối với các tư nhân ko với căn quả,
mệnh đồng lại không hiểu biết, u mê lầm
lẫn, hùa theo người, tôn nhang bản mệnh cómục
đích vụ lợi, làm những việc trái đạo…
Theo quan Điểm của Phật
GIáo. Có nên Lập Bát hương Bản Mệnh hay không?
Ai mà có tướng yểu mệnh đó là tiền kiếp mình
thường làm ác, tổn hại sinh linh nhiều, không có tâm nhân từ, hay
sân hay si thì mệnh mình giảm, không được trường thọ. Còn ngược lại
nếu mình chăm tu, làm phước sống nhân từ, bác ái, thương người cứu
vật tự nhiên sẽ hiện ra tướng thọ mệnh, mạng mình sẽ được kéo
dài.
Vậy chính mình làm chủ bản mệnh của mình, chứ
không phải thờ bát hương bản mệnh là có cái ông thần bản mệnh, hộ
mệnh cho mình để kéo dài mạng sống cho mình đâu. Mình mà làm ác thì
chư thiên, thiện thần không ai ủng hộ. Dù có thờ 10 bát hương đi
chăng nữa mà vẫn tạo ác thì vẫn tổn mệnh như thường. Vì vậy không
nên thờ bát hương bản mệnh. Đó là việc không hợp đạo lý, nhất là
Phật tử đã quy y Tam Bảo rồi, nếu lỡ thì giải bỏ đi. Mà mình phải
thờ cái bản mệnh tâm mình, kính thờ nơi tâm mình, nhất tâm tu
Phật.
Các cụ có câu: Có thờ có thiêng có kiêng có lành.
Do đó nếu có căn quả nên lập phủ thờ thánh. Nếu không có căn quả
mong muốn mọi sự tốt lành cũng nên lập. Lập không có nghĩa là thần
thánh sẽ quyết định được số phận của mình. Số phận của anh chị là
đường chỉ tay, đường chỉ tay nằm trong lòng bàn tay anh chị.
Để viết chi tiết thì bài viết cực dài do đó em đã
tóm tắt lại như sau:
Tôn nhang đội lệnh là hình thức đầu tiên và căn
bản nhất của người có căn trong đạo Mẫu. Nghi lễ này được thực hiện
tại Tòa, Đền, Phủ, hoặc Điện. Sau nghi lễ sẽ để lô hương tại Tòa,
Đền, Phủ, Điện để Đệ tử có thể hằng tháng sóc vọng hương khói lễ
bái. Trường hợp xa những nơi thờ cúng trên có thể xin lô hương đó
về nhà thờ nhưng phải có ban thờ riêng không thờ chung với gia tiên
mình, cũng có thể phối thờ chung với ban thờ đức Quốc Mẫu (nếu
có).
Lưu ý rằng, Tôn hương đội lệnh dành cho những
người có căn nhẹ không quá nặng nề, hoặc do điều kiện chưa thể phục
vụ Thánh đức, chưa thể hầu hạ Tiên Thánh được nên mới Tôn nhang,
hoặc có thể Tín đồ mới vào đạo cần thời gian chiêm nghiệm và tìm
hiểu về đạo nhiều hơn thì dùng nghi lễ này.
Người tôn hương đội lệnh trước ngày lễ phải kiêng
cữ chuyện vợ chồng, phải chăm làm việc thiện lành, phải giữ tâm
trong sạch, không được nghĩ ngợi những việc xấu, toàn tâm toàn ý
dâng lên Thánh đức, làm như thế để tịnh hóa bản thân, lễ vật xứng
đáng dâng lên đức Quốc Mẫu và Tiên thánh tốt đẹp nhất là cái tâm
trong sáng, thân thể sạch sẽ, không được nhơ bẩn uế trược.
Lễ vật dâng cúng lên đức Quốc Mẫu và Tiên Thánh
được quy định trong quy tắc của Giáo hội Đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG,
lễ vật gồm chay nghi thanh tịnh, hoa quả, đồng quà tấm bánh, kẹo
vật phẩm đơn giản, điều quan trọng nhất là lễ cho mâm hương của
mình.
Việc tôn nhang bản mệnh là hình thức thờ cúng Thần
hộ mệnh của mình. Vị thần này là các nữ thần, nhiệm vụ của họ là
tấu thay lạy đỡ lên Thánh Bản mệnh giúp mình, sau khi tiến lễ Tôn
nhang đội lệnh chúng ta có thêm được vị Thần Hộ mệnh này trợ giúp
về mặt tâm linh, sau khi trình đồng Thần Hộ mệnh sẽ sát cánh trợ
lực cho ta và Thánh Bản mệnh sẽ trợ giúp chúng ta, nâng đỡ chúng
ta, cầu bầu cho chúng ta lên đức Quốc Mẫu Tối cao.
Mâm hương trong lễ Tôn hương đội lệnh bao gồm: 1
nón Thần hộ mệnh, 1 đôi hài, 1 chiếc gương nhỏ, 1 lược, 1 bút, 1
vở, 1 quạt, 36 đồng tiền dương, trầu cau, sớ Tôn hương, Cốt bát
hương ghi tên duệ hiệu của Thần Hộ mệnh, màu nón hài tùy theo dòng
Thần hộ mệnh đó. Nội dung cốt hương đó như sau: “Phụng thỉnh (tên
vị Thần Hộ mệnh) Công chúa (sinh năm) Bản mệnh (họ của người tôn
nhang) tính Vị Tiền”
Chủ trì lễ Tôn nhang có thể là Quan thầy hoặc Pháp
sự của Giáo hội, Đồng thầy của Tín ngưỡng Mẫu. Trong lễ này, Thầy
phải cung thỉnh Tiên Thánh trong Tứ phủ Công đồng các khoa thỉnh có
thể là: Cúng đức Quốc Mẫu Tối Cao, Cúng Thánh Mẫu, nếu người
Tôn hương có căn bên nhà Trần thì phải làm lễ Đội lệnh nhà Trần (sẽ
được trình bày sau).
Sau khi hoàn thành phần khoa thỉnh, là tới phần
chứng mâm hương, phần chứng này chỉ có Quan thầy hoặc Đồng thầy mới
có thể chứng được, Pháp sự không có Đồng không thể chứng mâm hương
được. Trước khi người Tôn nhang đội mâm hương, cung văn tấu lên hát
văn Thỉnh Công đồng, người Tôn nhang ở dưới quỳ lễ cung thỉnh. Sau
khi thỉnh Công đồng xong thì người Tôn hương xin phép Tiên Thánh
được lên sập Công đồng ngồi. (Nhớ cho kĩ là không được ngồi giữa
sập Công đồng vì chưa là Thanh đồng nên không được ngồi giữa sập,
chính giữa là nơi cho Thanh đồng ngự giá hầu Thánh). Cung văn hát
bài tôn hương, Quan thầy vận áo màu đỏ (Áo công đồng) tay cầm 3 cây
hương thư vào mâm hương, tiếng hát ngưng.
Thư chữ xong
làm phép khai quang, Quan thầy đọc:
“Dung nhan thập kì diệu
Khai quang chiếu từ chung
Ngã tích tàng cúng dạng
Kim phụng hoàng dân cận
Thánh Chúa Tiên chung vương.”
Quan thầy tuyên lớn: “Phụng thỉnh (Tên thụy
hiệu Thần Hộ mệnh) Công chúa Thủ hộ Bản mệnh (Tuổi người tôn nhang)
họ (họ của người Tôn hương) Tác đại chứng minh”.
Tuyên xong, Quan thầy thư vào mâm lễ các chữ
sau:
“Tiên Thánh chứng minh
Hội đồng chứng chiếu”.
Quan thầy hoặc
Pháp sự quỳ xuống tuyên sớ Tôn nhang. Tuyên xong hóa sớ. Cung văn
hát bài hành sai. Quan thầy cho cốt hương vào bát nhang trên mâm,
cho tro vào và cắm 3 nén hương khai quang vào bát nhang.
Quan thầy tạ
quá, hoàn lễ.
Lễ này hoàn
mãn, người Tôn nhang chính thức được gọi là Hương tử hay nôm na là
Con hương.
Nhiệm vụ của
Hương tử là hàng tháng sóc vọng thường xuyên tới Tòa, Đền, Phủ,
Điện hương khói phụng thỉnh trong vòng 100 ngày, ngoài 100 ngày thì
hằng năm bốn vấn quy về lễ tiết phụng trì (ngoài ra có thể tùy vào
Đền phủ có các ngày Thánh đản của Thần chủ).
Nếu Hương tử
xin lô hương về tại gia thờ phụng thì một năm 4 vấn vẫn phải về
Tòa, Phủ, Đền, Điện nơi Tôn hương mà khâm trực phụng trì.
Theo nghi tiết
của Giáo hội Đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG thì Hương tử chưa được phép
mặc áo công đồng (áo đỏ có chữ thọ), chỉ có thể mặc áo dài trắng
không hoa văn không xếp (nếu có) hoặc đã thụ quy vào Giáo hội thì
được mặc áo đỏ không hoa văn, xếp vàng (với nữ) áo đỏ xếp đỏ (với
nam) (tất cả có trong quy định nghi tiết của Giáo hội)
Về mặt thần
học, người Tôn nhang sẽ được Thần Hộ mệnh của mình cầu nguyện lên
Thánh Bản mệnh của bản thân (Thánh đứng đầu căn đồng của mình) để
các Ngài gia hộ, chứng giám, gia ân cho Hương tử. Vậy nên mới nói
Tôn hương là hình thức cơ bản đầu tiên và sơ khai nhất dành cho
người có căn đồng, nó dành cho người nhẹ căn. Tất nhiên, để biết
nặng hay nhẹ, tùy thuộc vào sự nhìn nhận và hướng dẫn của Quan
thầy.
Bộ đồ thờ men lam bọc đồng số
4
III. Sơ trình Tam
phủ:
Tam phủ hay còn gọi là Tam phủ công đồng là hình
thức sơ khởi ban đầu của Tứ phủ Công đồng. Tam phủ công đồng
có Thiên phủ, Địa phủ, Thoải phủ khác với Tứ phủ là không có
Nhạc phủ.
Tam phủ Công đồng hay gọi tắt là Tam phủ là nơi
lưu trữ căn bản những tội phúc của con người, kiểm soát, coi sóc,
giáng tai làm phúc cho sinh nhân trên toàn nhân thế, không riêng
già trẻ, trai gái, có căn hay không có căn.
Xét về quy mô, Tam phủ không có Nhạc phủ, không
những thế, nhắc đến Tam phủ là không nhắc đến các hàng Mẫu, Chúa,
Chầu, Hoàng, Cô, Cậu mà ta thấy đầu tiên phải là Thiên phủ Chí Tôn,
Địa phủ Chí Tôn và Thoải phủ Chí Tôn cùng các tùy tòng của các
Ngài.
Tam phủ vâng phụng Quốc Mẫu giáo phong có quyền
kiểm soát hết thẩy sinh mệnh của toàn thể sinh linh trong Vũ trụ,
những tội ác hay phúc thiện trong quá khứ, những tai ương hay điều
lành hiện tại, những hiện tượng sẽ xuất hiện trong tương lai thì sẽ
được tất cả các Thánh đức trong Tam phủ biên kê rõ ràng và sai các
Hành binh đi thi hành nơi nhân thế, đặc biệt nhất là việc thu lại
hồn phách của người đó.
Như đã nói trên, người có căn đồng trong đạo Mẫu
là người mang nặng tội nghiệp, mà đã mang tội nghiệp thì ắt sẽ bị
các Thánh đức trong Tam phủ kiểm tra và hành tai, người có căn đồng
phải Sơ trình Tam phủ nặng hơn người phải Tôn hương đội lệnh. Có
thể biểu hiện có họ nặng nề hơn, họ ngu ngơ, làm mọi sự đổ vỡ, thân
thể bất an, tôn hồn hoảng hốt, nguyên nhân theo Thần học là hồn
phách họ bị nhốt vào các ngục của Tam phủ công đồng, Thiên ngục,
Địa ngục, Thủy ngục.
Người hành lễ Tam phủ để sám hối tội lỗi của mình
đã gây ra từ trước, có khi nó được dùng cho những người nặng căn
nhưng không có khả năng xin hầu Thánh giá.
Lễ sơ trình Tam phủ hay còn gọi là Lễ Tam phủ Thục
mệnh Tiễn Căn cầu an giúp họ thống hối ăn năn những điều tội lỗi
trước kia và tự định những việc mình sẽ phải làm trong hiện tại và
tương lai, sau đó đối trước Tam phủ Thánh hiền cung xin chư Ngài
cho phép phụng hành, tuyên thỉnh việc đạo, làm lành, lánh dữ, nương
theo Thánh lực đển cứu độ bản thân, gia đình và mọi người xung
quanh. Đó chính là nghĩa lí căn bản của việc Sơ trình Tam phủ.
Người chủ trì lễ Sơ trình Tam phủ có thể là Đồng
thầy hay Pháp sự. Lễ Tam phủ không bắt buộc phải hầu chứng, nếu có
người hầu chứng phải là Đồng thầy, người làm lễ không được hầu vì
qua lễ này người đó chưa phải Thanh đồng nên cũng không phải hằng
năm bốn vấn hầu đồng.
Lễ vật để dâng cúng trong lễ Sơ trình Tam phủ là
trai nghi thanh tịnh, tuân theo quy định về nghi tiết của Giáo hội
Đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG, nhưng đáng chú ý nhất là nghi tiết khai
chĩnh mở Tam phủ.
Khai chĩnh mở Tam phủ thoạt đầu nhìn nghi tiết
giống với khai chính mở Tứ phủ, nhưng về bản chất hoàn toàn khác.
Khai chính mở Tam phủ là việc giải thoát cho người cung lễ khỏi
những tội lỗi của của bản thân, giải thoát họ khỏi những triền
phọc, chứng nhân cho việc chuyển hóa đạo đức, còn khai chĩnh Tứ phủ
là hình thức mở cửa Bốn phủ, đón nhận Bản mệnh của Thanh đồng, đánh
dấu sự hiệp thông trực tiếp của Bản thân Thanh đồng với Tiên Thánh
trong Công đồng Tứ phủ.
Sự khác nhau còn thể hiện ở hình thức, khai chĩnh
Tam phủ không có nối cầu, không khai trứng, không cấp thực ban
ngân, không tưới tẩm cây cối…
Người lễ Sơ trình Tam phủ phải chuẩn bị lễ vật
theo quy định của Giáo hội và đặc biệt hai thứ sau đây không thể
không có: 3 chĩnh Tam phủ, 3 gáo khai chĩnh lần lượt các phủ Thiên
phủ màu đỏ, Địa phủ màu vàng, và Thoải phủ màu trắng.
Khoa nghi trong lễ sơ trình Tam phủ cốt tủy tập
chung vào 2 khoa nghi chính là Khoa Phát tấu và Khoa Tam phủ Thục
mệnh. Thánh trong Tam phủ là Thánh cao trọng chỉ gồm Vua và các Bộ
chúng nên phải nhờ tới năm vị Sứ giả để cung thỉnh Thánh đức, sự
hiệp thông của Năm vị Sứ giả cùng với lòng tín nguyện của bản thân
mới có thể cảm động Tam phủ một cách sốt sắng. Ngoài ra còn có thể
có những khoa nghi khác như cung thỉnh Đấng Tối cao, Thánh mẫu, Chư
thánh khác … tùy nghi và thời gian.
Trung tâm của nghi lễ Sơ trình Tam phủ là nghi
thỉnh khai chĩnh Tam phủ.
Việc khai chĩnh Tam phủ có thể được thực hiện ở
hai thể thức khác nhau, Pháp sự khai chĩnh và Quan thầy hầu đồng
khai chĩnh.
Nếu chủ lễ là Pháp sự thì Pháp sự sẽ là người khai
chĩnh. Khi Pháp chủ tuyên điệp Thiên phủ khai giải Thiên ngục xong,
nhạc lễ tấu lên, Pháp sự hành sai, dùng 3 nén hương sai, cặp vào
một chiếc gương nhỏ trên tay, đọc niệm hương khai quang:
“Dong nhan thập kì diệu
Quang minh chiếu từ chung
Ngã tích tàng cúng dạng
Kim phụng hoàng dân cận
Thánh chúa Tiên trung vương.”
Khai quang
xong, Pháp sự hóa phù khai giải Thiên phủ màu đỏ, vừa hóa vừa cầm
phù đang cháy trên tay hơ lên gáo màu đỏ, rồi cầm gáo màu đỏ mở
chĩnh Thiên phủ, lấy một chút nước trong đó đổ lên đầu của người
hành lễ. Các phủ khác tương tự như vậy.
Nếu người chủ
trì lễ Sơ trình Tam phủ mà có hầu đồng, thì phần khai chĩnh lại ở
trong phần hầu đồng. Khi hầu đồng Thánh giá sẽ đệ trình lên Tam phủ
công đồng chính lẽ đó không có đốt phù khai giải. Thánh giá khai
Tam phủ là Quan đệ nhất Thượng thiên, Quan đệ Tam Thủy phủ và Quan
đệ tứ Khâm sai lần lượt khai chĩnh Thiên phủ, Thoải phủ và Địa phủ.
Sau khi Thánh giá làm các nghi tiết thông thường như trong hầu
đồng, an tọa và nghe Pháp sự tuyên cáo Thiên phủ khai giải Thiên
ngục, trình lên Quan lớn phê “Chuẩn nạp”. Phê xong quan lớn vỗ gối
đứng lên, hầu dâng tiến lên 3 nén hương sai và chiếc gương nhỏ, giá
Quan khai quang, dùng gáo khai chĩnh, giá Quan lớn không đốt phù
khai giải. Khai chĩnh xong giá Quan lấy chút nước đổ lên đầu của
người hành lễ. Lần lượt Thiên phủ, Thoải phủ và đến Địa phủ.
Không có danh
xưng mới nào dành cho người Sơ trình Tam phủ, nhưng ý nghĩa về mặt
Thần học như nói trên quả vô cùng lớn lao, họ được các Thánh đức
trong Tam phủ công đồng chứng chiếu gia ân bảo hộ xóa bỏ những
khung hình phạt đã được ghi chép tại Tam phủ ngục hình. Nhờ sự gia
ân của Tam phủ và chí thiết của bản thân, những tội lỗi cũ của họ
sẽ được ân xá phần nào, về trong cuộc sống cần chăm cầu nguyện,
tiếp xúc với Quốc Mẫu và chư vị Tiên Thánh, làm việc phúc thiện thì
những tội lỗi của họ sẽ được giảm xá.
mua đồ thờ tại gốm sứ Lợi An
Trình đồng mở
phủ:
Trình đồng mở phủ là nghi thức cao nhất của người
có căn đồng trong đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG. Người thực hành nghi lễ
này là người có tình trạng sát căn rất lớn, nghiệp mệnh của họ đòi
hỏi họ phải có những việc làm phụng vụ cao hơn, họ phải “đầu đội
việc Thánh, vai gánh việc trần”, những người có căn cao quả nặng,
vận mệnh số kiếp đều long đong, mệnh càn bóng quế, sống nơi trần
thế, nhưng số hệ thiên cung, đang bị hành hạ và quản thúc bởi các
chư Thánh thần do vì chính nghiệp chướng của họ gây ra từ
trước.
Nghi lễ này biểu đạt tinh thần chịu nhận, đón nhận
Thánh linh của các Thánh đức trong Công đồng, người có căn sẵn sàng
để được thừa hưởng diễm phúc rằng Thánh đức Bản mệnh của mình cũng
như Thánh đức trong toàn Tứ phủ Công đồng dẫn dắt, chỉ lối dẫn
đường, gia ân bảo hộ, cho Thánh đức, nhờ vào tay Thánh mọi trọc
phiền của người có căn được hóa giải và sẽ đến lúc tan biến.
Lễ trình đồng mở phủ khai mở con đường hiệp thông
của người có căn với Đình thần Tứ phủ, gồm cả Thiên phủ, Địa phủ,
Thoải phủ và Nhạc phủ. Nó là con đường ngắn nhất để ta có thể biểu
đạt, rãi tỏ tấm lòng của mình với Đức Quốc Mẫu và Tiên Thánh. Có
thể nói sự hiệp thông đó là trực tiếp và hoàn mãn nhất trong 3 lễ
liên quan đến căn mệnh. Khác với lễ Tôn nhang thì qua lễ này người
có căn sẽ trực tiếp cầu thông với Tiên thánh, còn người làm lễ tôn
nhang chỉ cầu thông được với Thánh nhờ thần Hộ mệnh của mình.
Trước khi làm lễ Trình đồng mở phủ, người có căn
cần tới xin lễ ở Tòa Phủ Đền Điện, thỉnh giáo ý kiến của Quan thầy,
cho ngày giờ, và nhớ nghe theo sự hướng dẫn của Quan thầy. Trước
ngày lễ hàng tuần phải giữ gìn thân thể sạch sẽ, tránh những việc
giết hại, kiêng cữ chuyện vợ chồng, tâm hồn trong sáng, đoan chính
ý niệm, giữ gìn phong ngôn nhu nhặn, không đánh cãi chửi nhau, chăm
làm việc phúc lành, xưa làm nhiều giờ làm nhiều hơn, tránh xa những
ý niệm sai khác xấu ác, không hành động làm tổn hại người khác
…
Người có căn phải chuẩn bị cho mình một đàn nghi
tươm tất, gọn gàng, lễ nghi thanh tịnh, hoa tươi quả tốt, hiến cúng
mười phương Chư Thánh. Ngoài ra nhất thiết phải có những phẩm vật
sau đây:
Một bộ khăn áo Công đồng: Áo dài đỏ có hoa văn,
quần trắng, khăn xếp màu đỏ, khăn phủ diện đỏ, khăn tấu màu đỏ, mỗi
thứ một cái.
Khăn van chít đầu, cầu mở phủ (bằng vải hay bằng
giấy) mỗi thứ 4 cái 4 màu tượng trưng cho các phủ: Thiên Nhạc Thoải
Địa trên mỗi cầu viết phù khai phủ cầu.
4 quả trứng gà được bọc 4 màu tương ứng các phủ
nếu có điều kiện thì mỗi phủ 12 quả, có khi 36 quả (tùy điều
kiện).
4 quạt 4 màu dùng để khai phủ, 1 nọ nước hoa (có
thể 4)
Bộ cấp thực ban ngân: Một nhúm gạo, thóc, đỗ,
lạc, muối mỗi thứ đóng 4 gói nhỏ thắt bằng nơ màu của bốn phủ, tiền
dương 4 đồng, trầu têm cánh phượng 4 miếng, lựa kĩ 4 bông hoa
tươi.
Bốn chĩnh trong đổ tương đối nước, được đậy miệng
lại bằng bốn miếng giấy bốn màu, giấy phải đảm bảo khi khai chĩnh
được dễ dàng.
Người có căn phải tự mình chuẩn bị sẵn 4 chậu cây
cảnh do mình tự chăm sóc để khi khai phủ Thánh giá sẽ tưới tăm cây
nhân đức, trên mỗi thành chậu đề lần lượt một chữ Thiên, Địa, Thủy,
Nhạc.
Dâng nón và hài Mẫu, nước thơm, 4 tập giấy bốn
màu (có thể thay bằng vở) 4 bút.
Nếu có điều kiện dâng Mũ Thiên đế và Nam tào Bắc
đẩu và nón của Tiên chúa Sơn trang cùng Hội đồng.
Bài vị thì theo nghi tiết của Giáo hội nhưng cần
thiết nhất vẫn là bài vị của Đấng Tối cao, Công đồng và đặc biệt là
5 bài vị trong đó có bài vị của Thiên phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ, Địa
phủ và Bản mệnh (màu hồng) trên bài vị các Phủ có viết phù khai
phủ.
Về phần khoa nghi thì cốt tủy trong khoa nghi của
lễ trình đồng là phát tấu và trình đồng, có thể kết hợp thêm các
khoa nghi khác như Sơn trang, Trần triều, Bản mệnh … Về cúng Phát
tấu cũng khá quan trọng nó mang ý nghĩa là nhờ 5 vị sứ giả cúng
vọng Tiên Thánh về chứng cho người có căn, vì tới thời điểm làm lễ
người có căn vẫn chưa hiệp thông trực tiếp được với Tiên Thánh.
Lễ vật cúng Phát tấu là riêng biệt so với lễ cúng
Tứ phủ kể trên, lễ vật cho khoa này gồm có: 5 quả trứng 5 màu, 5
tập giấy, 5 bút, 5 gương, 5 lược, 5 khăn mùi xoa, 5 quạt năm màu, 5
con dao, 5 cái kéo, 1 nước hoa (hoặc 5), 5 hộp diêm (hay bật
lửa).
Sau khi hoàn thành các khoa nghi là đến phần hầu
khai phủ, phần này là trung tâm quan trọng của lễ Trình đồng mở
phủ.
Đồng thầy lên sập công đồng, khăn áo chỉnh tề,
khoác áo công đồng màu đỏ. Trước khi vào vấn hầu chứng đồng Quan
thầy khấn nguyện xin phép Quốc Mẫu Tiên Thánh gia ân bảo hộ cho
Quan thầy hầu và Tân đồng cúng lễ.
Thầy có thể hầu các giá nhà Trần và hàng Chúa như
thường lệ, thông thường nên hầu 1 giá nhà Trần và 1 giá Chúa.
Nếu người không có căn bên nhà Trần thì tới giá
Quan đệ nhất mới chứng khăn xếp và đội lên đầu cho người làm lễ,
giá sẽ chứng sau khi khai quang. Các giá Quan đệ nhị, đệ tam, đệ tứ
cũng làm tương tự, sau phần nghi tiết thông thường thì đều tới phần
khai phủ.
Ở phần khai phủ, các ghế hầu dâng lên cho giá Quan
bài vị khai vị, giá quan khai quang bằng hương rồi các ghế cận cầm
dâng sớ để Quan lớn dùng nén hương đang cháy thư vào sớ chứng minh,
rồi đặt lên mâm lễ đang đội trên đầu của người có căn, việc này có
nghĩa là chứng minh lời cầu thỉnh của người có căn, sớ trạng được
chấp nhận.
Hầu dâng gấp dải khăn van thành nét dâng lên cho
giá Quan, Quan chứng rồi buộc lên khăn xếp của người có căn đội
trên đầu, đội khăn đó trên đầu người trình đồng phải có ý thức rằng
từ giờ việc của Tiên Thánh đã đặt lên đầu họ, họ có nhiệm vụ tuyên
dương Thánh đức, họ phải có ý thức học tập tuyên hành Thánh ý sống
tốt đời đẹp đạo, họ mang dòng máu Thánh thần trong mình, họ đã là
con của Thánh đức.
Thứ đến người làm lễ ngồi giữa sập công đồng, giá
Quan rải cầu chậm rãi từ chĩnh tới đầu của người làm lễ. Hầu dâng
dâng quạt trong mâm lễ trình (không phải quạt trên mâm lễ Phát tấu)
cho giá Quan, cầm một nén hương hành sai, Quan lớn đọc trong miệng
bài hành sai khai quạt, rồi phất tay mở quạt ra, rồi vừa phất phất
dẫn quạt từ đầu của người lễ đến chĩnh, làm xong cuốn cầu từ phía
chĩnh về đầu người đội. Nghi thức này tượng cho việc hiệp thông
trực tiếp từ Bản mệnh (đầu người lễ) tới các phủ (các chĩnh) bằng
cây cầu.
Dâng tiếp cho giá Quan trứng đã bọc giấy màu, Quan
khai quang và mở lớp giấy bọc trứng ra trong tiếng hát:
“Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nẩy rừng thông rườm rà.”
Thứ tiếp Quan lớn phát thực để vào khay lộc cho
người làm lễ, thứ đến lần lượt gạo muối, thóc, đỗ, lạc, hoa hồng,
tiền dương, trầu cau … lấy lộc cho Tân đồng.
Hầu dâng lại dâng tiếp thanh kiếm và chiếc gáo
khai phủ, Quan chứng rồi gõ 3 tiếng vào thành chĩnh xong rồi dùng
kiếm khai chĩnh xuyên qua lớp giấy bọc trên miệng chĩnh, tiếp theo
lại dùng gáo múc nước trong chĩnh tưới lên hoa trên đàn, tưới lên
cây cảnh, và lấy một chút nước cho vào chum nhỏ để cho Tân đồng làm
lộc, lấy nước thơm vẩy lên người Tân đồng.
Xong việc Quan lớn an tọa, chứng rượu nghe văn,
thứ đến Pháp sự quỳ gối cúi đầu tấu thỉnh nội dung khai phủ, Quan
lớn gật đầu chấp chứng, hầu dâng trình tập giấy đỏ Quan lớn
phê:
“Thiên phủ chứng minh
Hội đồng chuẩn nạp”
Tùy giá mà tùy phê, Quan đệ nhất phê “Thiên phủ
chứng minh”, Quan đệ nhị phê “Nhạc phủ chứng minh”, Quan đệ tam phê
“Thoải phủ chứng minh”, Quan đệ tứ phê “Địa phủ chứng minh” Xong
rồi Giá Quan dùng triện ấn Thiên phủ đóng dấu, lại dùng triện ấn
vào Điệp Tứ phủ. Đóng dấu xong, chứng, dâng lên Thượng điện.
Đó là nghi thức mở Phủ từng phủ của bốn Quan lớn,
Đến giá Quan lớn Tuần Tranh hành lễ xong Quan làm nghi thức tán
đàn, Quan cầm bó đuốc khai quang, thư vào đàn nội chữ:
“Tiên Thánh chứng minh
Hội đồng chuẩn nạp”
Chứng sớ điệp và sai người hóa sớ điệp, bài vị, hạ
mũ Thiên đế Nam Tào Bắc Đẩu (nếu có).
Hầu xong 5 giá Quan lớn, Quan thầy lại tiếp tục
hầu giá các Chầu. Nhất thiết phải hầu Chầu đệ nhị, Chầu lục và Chầu
bé. Vì lí do, Chầu đệ nhị là người kiêm tri Thánh mệnh, Chầu Lục là
chầu sửa sang mệnh, và Chầu bé là Chầu tiếp độ mệnh.
Chầu đệ nhị Thượng ngàn sẽ chứng mâm khăn áo,
chính thức thu nhận Tân đồng, và khăn áo đó sẽ được Tiên thánh gia
hộ, sau đó dùng chính chiếc khăn phủ diện vừa chứng trong mâm khăn
áo phủ lên đầu cho Tân đồng, rồi đặt mâm trầu để chứng, việc làm
này thể hiện rằng Tiên Thánh đã chính thức thu nhận tấm lòng của
Tân đồng. Người làm lễ đã chính thức là tôi tớ của Tiên Thánh,
chính thức là cái ghế của Thánh bản mệnh mình và chỉ cần qua một
nghi thức nữa là có thể thế Thánh cứu dân, có thể hiệp thông trực
tiếp với Tiên Thánh cũng như Thánh Bản mệnh của mình.
Chầu Lục Cung nương sẽ là giá trao áo Công đồng
cho Tân đồng, Chầu chứng áo rồi truyền trao cho Tân đồng, Tân đồng
ngồi trên sập Công đồng và các ghế hầu cậu phụ giúp việc mặc
áo.
Chầu bé là người sẽ sang khăn, đây là nghi thức
quan trọng và cuối cùng của Đồng thầy. Chầu phủ diện cho Tân đồng
trước, sau đó phủ khăn cho mình trong tiếng hát của cung văn:
“Sang khăn phủ bóng cho đồng
Đồng Tân lính mới phúc hồng đề đa”
Khi giá Chầu trùm khăn cho mình, cung văn hát “Xe
loan Thánh giá hồi cung”, Quan thầy tung khăn và dừng hầu chứng mở
phủ tại đó.
Sau khi Quan thầy hầu xong, tới lượt Tân đồng hầu
Thánh, Tân đồng sẽ được Quan thầy hướng dẫn, các nghi tiết vẫn như
thường lệ khi hầu đồng.
Khi Tân đồng hầu Thánh giá phán rằng: “ Hôm nay
ngày lành tháng tốt, Thánh giá giáng lâm, chứng Đền chứng Phủ,
Chứng Thủ nhang đồng đền, Chứng cho Quan thầy, Chứng Thanh đồng đạo
quan, chứng minh cho Tân đồng họ … nhất tâm nhất lòng, phụng hành
khoa nghi, tuyên dương Tiên Thánh, cung nghinh Tứ phủ Công đồng Hội
đồng Các giá giáng lâm, ân chiêm khai phủ, chứng minh cho đồng tân
lính mới, độ Tân đồng Đồng không bóng ngoan, đồng sang bóng lịch
sự, trên lo việc Thánh, dưới gánh việc trần mọi sự đều thông an
minh bạch, độ cho gia chung lộc tài vượng tiến, phúc lành cát
khánh, tử tôn hôn tế đề huề, bốn mùa không hạn ách, tám tiết được
trinh tường. Độ bách gia trăm họ nhà nào lộc ấy mọi sự mắn may,
hưởng ơn Quốc Mẫu và Tiên Thánh.”
Tân đồng sẽ được hầu hết các giá và hạ sơn nếu có
điều kiện nữa thì Quan thầy hoặc Đồng anh Lính chị nào đã có thâm
niên trên 3 năm Đồng thì có thể hầu tạ khóa lễ, nếu không thì xin
khấn lễ bái tạ.
Từ lúc nghi thức sang khăn kết thúc, người có căn
làm lễ Trình đồng đã chính thức trở thành Thanh đồng hoàn chỉnh, họ
có thể hầu Thánh, chính thức mang trọng trách “đầu đội việc Thánh,
vai gánh việc trần”.
Thanh đồng phải giữ gìn khăn áo Công đồng của mình
như gia sản, như đặc ân của Tiên Thánh trao phó cho, mất thì phải
sám hối xin may lại, không được tự ý mua thêm khăn áo Công đồng,
rách thì phải nộp lại khăn áo cũ và xin phép may khăn áo mới.
Sắp cấp cho Thanh đồng phải gìn giữ cẩn thận, là
vật bất li thân lâu dài, khi đi đâu làm ăn xa lâu ngày phải nhớ
mang theo bên mình, nó là có ý nghĩa nhắc nhở bản thân cũng mang ý
nghĩa hộ mệnh cho Thanh đồng, khi chết phải mang theo.
Tân đồng phải theo lễ sóc vọng hàng tuần tiết,
tiệc đản giáng hóa của chư Thánh tại Tòa, Phủ, Đền, Điện, nơi mở
phủ gọi là chốn Tổ, phải có trách nhiệm trong việc đạo việc hành lễ
của Ban Trị sự nơi chốn Tổ.
Thanh đồng phải biết rằng giờ là lính ghế nhà
Thánh, phải sống tốt đẹp, “Trên vâng Tiên Thánh, dưới theo Quan
thầy”, phải chăm học tập chiêm nghiệm giáo lí tư tưởng của Thánh
đạo, khai hóa những nét đẹp của đạo Mẫu Việt Nam – HTTTG, truyền bá
mở rộng đạo, nói giảng cho những người không hiểu, hoặc nghĩ sai
lệch về đạo Mẫu, phải là những chiến sĩ dũng mãnh trong công tác
đạo giáo. Luôn hòa nhã, nhường nhịn với Đồng đạo, không khoe
khoang, luôn ân cần với mọi người Đồng đạo, không ghanh đồng ghanh
bóng, không biện lễ lạc to lớn để chứng tỏ mình.
Về đời sống, Thanh đồng phải hoàn thành nghĩa vụ
của mình trong đời sống, chăm chỉ làm kinh tế, không quản nề hà mọi
sự, biết hi sinh cho gia đình và đất nước, xông pha vào mặt trận
kinh tế, văn hóa xã hội, giúp sức mình vào lợi ích chung của cộng
đồng. Thanh đồng luôn phải giữ gìn thật tốt những quy chuẩn đạo đức
mà cộng đồng thiết đặt, có như vậy mới là vinh danh Thánh giá, mới
là “đồng khôn bóng ngoan, đồng sang bóng lịch sự”. Phải luôn luôn
nhớ câu: “Tốt đời đẹp đạo”. Có được như thế ta mới báo đáp được
công ơn của Quốc Mẫu và Tiên Thánh cũng như Thánh Bản mệnh.
Bộ đồ thờ dát vàng
Đội lệnh nhà
Trần:
Nhà Trần không phải là một Phủ, cách sắp xếp của
Nhà Trần theo mô hình gia đình chứ không theo chức tước, Thánh
phẩm, Thánh vị như trong Tứ phủ có Vua Mẫu, Chúa, Chầu, Cô, Cậu
…
Đức Thánh Trần đứng đầu nhà Trần chính là hiện
thân của Thanh y Đồng tử là Thái tử thứ bảy của Thiên đế nơi trần
gian, chính vì lẽ đó Nhà Trần (Phủ Trần Triều) được đưa về thờ bên
cạnh Tứ phủ cùng với Phủ Sơn Trang.
Như trên đã nói Đức Thánh Trần là Thanh Y Đồng Tử
giáng thế cứu độ Nam Việt là con của Thiên Đế thuộc dòng Tam phủ,
nên những ai có căn nhà Trần thì không Trình đồng Tứ phủ (những ai
vừa có căn Tứ phủ vừa có căn Nhà Trần thì có thể trình đồng Tứ phủ)
mà chỉ cần Đội lệnh Nhà Trần thì có thể ra hầu và phụng sự Nhà Trần
cứu dân độ thế được.
Lễ vật trong nghi lễ Đội lệnh nhà Trần gồm những
lễ vật oản phẩm thông thường có thể dâng cúng nhà Trần nón hài hia
áo … một vật phẩm khá quan trọng là Hòm sắc, người đội lệnh nhà
Trần cần chuẩn bị kĩ, sơn son thiếp vàng, giữ gìn thật cẩn thận.
Nhìn chung lễ vật dâng cúng nhà Trần khá đơn giản.
Trước khi làm lễ phải thỉnh tới Quan thầy Trần
Triều (là Quan thầy có căn thông hiểu Trần Triều) đứng ra chủ trì
lễ này cho Đệ tử (Quan thầy Tứ phủ không làm được). Quan Thầy sẽ
thảo ra sắc Trần Triều cho Đệ tử, xin phép Đức Thánh Trần đặt tên
Thánh hiệu nhà Trần.
Khoa nghi có thể cúng Phát tấu, Tam phủ nhưng nhất
quyết phải cúng thỉnh Trần triều.
Sau phần cúng thỉnh là tới phần Hầu Thánh Trần,
nếu hầu Thánh trần chuyên biệt thì phải hát thỉnh Tam phủ Công đồng
trước, sau đó thỉnh đức Thánh Trần luôn và không có thỉnh Mẫu, Quan
Thầy hầu giá đức Thánh Trần, mở sắc ra phê chữ “Chuẩn nạp” và gói
ghém kĩ càng cho vào hộp sắc, truyền trao cho Đệ tử mới. Quan thầy
có thể hầu thêm các giá Trần triều nhưng không hầu giá nào của Tứ
phủ, cũng không hát thỉnh.
Sau nghi thức cấp sắc thì Đệ tử có thể hầu tất cả
các giá nhà Trần được gồm Đức Đại vương, gia thân và tôi tớ tướng
tá của Ngài. Các giá nhà Trần đều ngự áo màu đỏ, trừ Vương cô Nhất
màu vàng, Vương cô Nhị màu xanh. Đức Đại vương không lên Đai
thượng, còn các Đức ông khác thì có.
Các giá nhà Trần thường đi cờ kiếm, riêng Đức Đại
vương có thể đi cờ bằng khăn tấu, Vương cô Đệ nhất đi cờ đại không
đi kiếm và Điện Súy Đức ông thì đi Long đao. Phải lưu ý, Cô Bé Cửa
Suốt và Cậu Bé Cửa Suốt là tùy tòng của Đệ Tam Đức Ông, cách gọi Cô
cậu này không giống với cách gọi Cô Cậu trong Tứ phủ, mà đây là
cách gọi trong Gia đình.
Người Đội lệnh Trần triều phải hằng tháng sóc vọng
khâm trực cửa Đức Đại vương và nơi Đội lệnh, nếu có điều kiện thì
lập tĩnh thờ Đức Đại vương ở nhà, nếu lập tĩnh thờ ở nhà thì trong
lúc Quan thầy hầu Đức Đại vương Ngài phê sắc ban cho tên Tĩnh hay
Điện thờ Tại gia.
Người Đội lệnh Trần triều phải giữ gìn Hòm sắc cẩn
trọng, nó là thứ tôn quý mà Nhà Trần ban cho, khi chết mà phải mang
theo bên mình.
Người Đội lệnh Trần triều phải học hỏi Quan thầy
các phương pháp cứu dân độ thế, nghiêm cứu chiêm nghiệm Thánh đạo,
nếu được Thánh đức ban ân phải cùng gánh vác công việc độ thế với
Giáo hội và Quan thầy.
Với người vừa có căn Tứ phủ vừa có căn Trần triều
thì có thể đội lệnh Trần triều và trình đồng Tứ phủ cùng lúc.
Bộ đồ thờ men rạn đắp nổi
Mở phủ Tam Tòa Chúa
bói:
Với những người có căn mệnh tiên tri, bói toán thì
họ cần phải mở Phủ bói để các vị Chúa bói gia ân bảo hộ cho khả
năng được sáng tỏ để có thể giúp người. Có người mở Phủ bói để cho
mình được tự tin vào phán đoán của bản thân trong công việc hoặc
cuộc sống.
Người có nguyện vọng muốn mở Tam Tòa Chúa Bói phải
cung thỉnh Quan Thầy chứng giám và hướng dẫn, người muốn mở Phủ bói
điều kiện đã là Thanh đồng tức đã lễ Trình đồng rồi hoặc có thể kết
hợp với Trình đồng khai phủ với mở phủ Tam Tòa Chúa Bói trong lễ mở
phủ, nhưng thông thường làm riêng.
Mở phủ Tam tòa Chúa Bói là một việc làm cúng trình
lên các Tiên Chúa có khả năng Tiên tri trong hệ thống Tứ phủ, tuy
gọi là Tam tòa nhưng sự thực thì có rất nhiều chúa Bói phải kể đến
là Chúa Tây Thiên, Chúa Nguyệt Hồ, Chúa Cao Mại, Chúa Cà Phê, Chúa
Mọi Tộc, Chúa Ba Nàng, Chúa Năm phương, nhưng đứng đầu là ba vị
Chúa đệ nhất Tây Thiên, Chúa đệ nhị Nguyệt Hồ và Chúa đệ tam Cao
Mại, nên người ta gọi là Tam tòa Chúa Bói.
Lễ vật dâng cúng Tam tòa Chúa bói khá cầu kì với
những màu sắc đẹp mắt:
Ba bộ nón hài quạt của Chúa.
Một chĩnh nước có nắp màu xanh.
Ba đĩa bánh với mỗi đĩa gồm: bánh trưng, bánh
dầy, bánh gai, bánh cốm, bánh phu thê.
Ba Quạt, 3 khăn, 3 gương, 3 lược, 3 thoi chỉ, 3
kim khâu, 3 con dao, 3 cái kéo, 3 miếng trầu, 3 hũ ngũ cốc, 3 quả
trứng chín, 3 quả trứng sống, 3 đồng tiền dương. (nếu có điều kiện
thì 12, hoặc 36).
Nếu mở Tam Tòa Chúa Bói cùng Mở phủ trình đồng thì
sẽ cúng các khoa Tứ phủ Trình đồng, Khoa Tam tòa Chúa Bói nếu mở
phủ bói riêng thì có thể cúng khoa Thánh Mẫu và Tam Tòa Chúa Bói,
ngoài ra có thể cúng thêm Trần triều, Sơn Trang, Ngũ Hổ, tùy khoa
nghi.
Trong vấn hầu đồng mở Phủ Bói, ba giá chúa sẽ về
chứng nón hài và chỉ chúa Nguyệt Hồ mới mở khai chĩnh cho Thanh
đồng.
Thông thường đàn mở phủ Bói có 3 giá Chúa ngự về,
có khi nhiều hơn, Giá chúa sẽ chứng mâm nón hài tương ứng với màu
áo của mình, sau đó dải cầu từ trên ban có để Tam tòa Chúa Bói tới
đầu của Thanh đồng, sau đó cấp thực ban ngân cho Thanh đồng giống
như khi mở phủ trình đồng, nếu là chúa Nguyệt Hồ thì khai chĩnh và
ban nước cho Đồng, lấy một chút nước tưới tẩm lên đầu cho Đồng và
cây phủ Bói. Sau khi an tọa, Pháp sự tấu đối, Chúa phê vào sổ chữ
“Chuẩn thuận” và đóng triện vào.
Người mở phủ Bói là người đã trực tiếp hiệp thông
với Tam Tòa Chúa Bói và các vị Chúa Bói khác, nên họ có thể nguyện
cầu, và nhờ uy lực của các Chúa gia ân bảo hộ, khai quang trí tuệ
mình, cho mình được hoàn thành tốt bản nguyện thông tri âm dương,
chăm chỉ học hành chuyển hóa để có thể soi đâu sáng đấy, thông suốt
nhiều sự của thiên hạ, để có thể nhắn nhủ, khuyên dưỡng trần gian,
chăm tu tích công đức, chuyển hóa điều ác làm việc lành.
Người làm lễ Tam tòa Chúa bói cũng để tạ ơn Tiên
chúa đã linh tính mách bảo Thanh đồng trong cuộc sống cũng như
trong công việc, giúp Thanh đồng thoát ách khỏi nàn, hưởng nhiêu sự
lợi ích.
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê tôn cấp lập thờ là gì hãy cho
chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp
mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết tôn cấp lập
thờ là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều
nguồn. Nếu thấy bài viết tôn cấp lập thờ là gì Cực hay ! Hay thì
hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết tôn cấp lập thờ
là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình
nhé!!
Các Hình Ảnh Về tôn cấp lập thờ là gì
Các hình ảnh về tôn cấp lập thờ là gì đang được Blong NVC Cập nhập.
Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư
lienhe@domain.com. Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail
ngay cho tụi mình nhé
Xem thêm báo cáo về tôn cấp lập thờ là gì tại WikiPedia
Xin Chào. Mình là Hằng Nguyễn. Chuyên viên tư vấn Bất Động Sản cấp cao tại Blog NVC. Mình đảm nhiệm chuyên mục "Kiến Thức Bất Động Sản" tại blognvc.com. Với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực BĐS. Hy vọng sẽ giúp bạn có thêm nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong việc đầu tư Bất Động Sản.